BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT

* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra:

Quy định về bồi thường thiệt hại do nhiều người gây ra được quy định tại Điều 587 BLDS 2015, theo đó trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; trường hợp không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:

Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nêu trên.

Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 594 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó:

+ Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

+ Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng làm phát sinh trách nhiệm ở người có hành vi đó mà không phụ thuộc vào yếu tố lỗi của người đó dưới bất kỳ hình thức nào.

* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết:

Tình thế cấp thiết được hiểu là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Hành vi gây thiệt hại được coi là không vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết khi đáp ứng các điều kiện sau đây:

          + Hành vi đó được thực hiện trong khi đang có một nguy cơ thực tế đe dọa tới quyền, lợi ích chính đáng của một chủ thể nhất định.

+ Việc gây thiệt hại là biện pháp cuối cùng.

+ Thiệt hại xảy ra nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Mức độ bồi thường: phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại.

* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:

        Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

        Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm:

        + Có thiệt hại xảy ra:

        + Thiệt hại do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra                  

        + Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.

        + Lỗi: trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh ngay cả khi chủ sở hữu hay người sử dụng nguồn nguy hiểm không có lỗi, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại và thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.

        Khi xác đnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải thể xem xét ở các trường hợp sau:

        Thứ nhất, nếu nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.

        Thứ hai, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu (mượn, thuê), sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ sẽ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

        Thứ ba, trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

        Thứ tư, trường hợp chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.

      * Trách nhiệm bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm hại:

Một số đặc điểm đặc thù của trách nhiệm bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm hại như sau:

+ Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác là hành vi trái pháp luật.

+ Thiệt hại xảy ra khi bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại về tinh thần.

+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe phát sinh không cần yếu tố lỗi.

Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người nhằm mục đích bảo vệ cho tính mạng, sức khỏe của cá nhân không thể bị xâm phạm. Đồng thời, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, phòng ngừa các hành vi vi phạm khác.

+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe không phát sinh đối với chủ thể là pháp nhân.

+ Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại là quyền nhân thân gắn liền với người bị thiệt hại và không thể chuyển giao cho người khác.

* Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra:

 Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra được quy định tại Điều 596 Bộ luật dân sự năm 2015. Theo đó, người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường. Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

* Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra:

Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra được quy định tại Điều 597 Bộ luật dân sự năm 2015. Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

* Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra:

Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, trường hợp này, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

* Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra:

Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

* Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý:

+ Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

+ Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

+ Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý; trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.

* Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra:

+ Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

+ Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.

+ Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.

+ Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

* Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra: chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.

* Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác. Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường.

* Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể:

Cá nhân, pháp nhân xâm phạm thi thể phải bồi thường thiệt hại. Thiệt hại do xâm phạm thi thể gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại. Người chịu trách nhiệm bồi thường khi thi thể bị xâm phạm phải bồi thường thêm một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết, nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi thi thể bị xâm phạm không quá 30 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

* Bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả:

Cá nhân, pháp nhân xâm phạm đến mồ mả của người khác phải bồi thường thiệt hại. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp mồ mả của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thêm một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích theo thứ tự hàng thừa kế của người chết; nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi mồ mả bị xâm phạm không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

* Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.

Trong trường hợp các bên không tự thỏa thuận được về mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc đã thỏa thuận được về mức bồi thường nhưng bên có nghĩa vụ không tiến hành bồi thường cho bên bị thiệt hại thì bên bị thiệt hại có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

=> Link sang phần tố tụng: Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng